Trong 5 năm qua, quá trình triển khai thực hiện Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế bất cập liên quan đến một số vấn đề.
Thực tiễn đòi hỏi tiếp tục điều chỉnh
Đó là đánh giá của ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) nêu ra tại Hội thảo “Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp: Kết quả 5 năm triển khai và định hướng sửa đổi, bổ sung” do Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức ngày 7/4 tại Hà Nội.
Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật số 69/2014/QH13) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2015. Sau hơn 5 năm thực hiện, Luật đã tạo hành lang pháp lý cho việc đầu tư vốn Nhà nước vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đã được xây dựng tương đối phù hợp với yêu cầu đổi mới, hội nhập.
Cục trưởng Đặng Quyết Tiến đánh giá: Các cơ chế, chính sách đã tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt động quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp; tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
Tuy nhiên qua 5 năm, trong thực tiễn triển khai, một số chủ trương, quan điểm chỉ đạo và hệ thống pháp luật có liên quan đến việc quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp có thay đổi. Do đó, quá trình triển khai thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn cũng đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế bất cập liên quan đến một số vấn đề.
Những hạn chế được chỉ ra là: Việc xác định vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp đang còn có nhiều cách hiểu khác nhau và được quy định tại nhiều luật nhưng chưa có sự thống nhất, thiếu rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện.
Thẩm quyền quyết định dự án đầu tư, xây dựng, mua bán tài sản cố định; thẩm quyền quyết định đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp; quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp; phương thức chuyển nhượng vốn đầu tư, phân phối lợi nhuận sau thuế.
Bên cạnh đó là các vấn đề về bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp; các phương thức chuyển giao, cơ cấu lại vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; việc quản lý, sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn; quyền hạn, trách nhiệm, phương thức quản lý người đại diện và nhóm người đại diện vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, cơ quan đại diện chủ sở hữu và công tác giám sát; quản lý của DNNN đối với công ty con do DNNN nắm giữ 100% vốn điều lệ…
Do đó, Cục trưởng Đặng Quyết Tiến cho rằng cần thu thập các ý kiến đóng góp, phân tích và đề xuất cần phải sửa đổi, bổ sung trong Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách cho phù hợp.
Phân định rõ trách nhiệm, thực hiện nguyên tắc thị trường
Đề xuất những nội dung cần sửa đổi, TS. Lê Đăng Doanh nhấn mạnh nội dung luật mới cần xác định phạm vi Nhà nước đầu tư, lĩnh vực cổ phần hóa. Thực hiện cổ phần hóa thực chất, có cổ đông chiến lược tham gia hội đồng quản trị, khắc phục cổ phần hóa hình thức với tỷ lệ thấp, ít nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp. Giải quyết vướng mắc về đất đai trong cổ phần hóa.
Ông Lê Đăng Doanh cho rằng, phương thức quản lý DNNN cần đổi mới theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm nguyên tắc ở đâu có vốn Nhà nước ở đó có sự quản lý, giám sát của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước.
Tuy nhiên, cần phân định rõ quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp, tránh can thiệp hành chính, can thiệp về nhân sự vào doanh nghiệp, thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý DNNN theo chuẩn mực quốc tế.
Còn TS. Nguyễn Thường Lạng (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) đề nghị Luật sửa đổi theo hướng thay đổi đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư vốn Nhà nước phải thực hiện theo các nguyên tắc thị trường, theo đó, phải đánh giá dựa trên giá trị gia tăng của vốn đầu tư và cổ tức, lợi nhuận được chia hằng năm – hiệu quả đầu tư vốn của cổ đông Nhà nước. Đây là điều mà các lãnh đạo DNNN mong đợi.
“Hoạt động làm ăn kinh doanh, khó có thể đòi hỏi DNNN “trăm trận trăm thắng”, phải giám sát yêu cầu hiệu quả nhưng đó là hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp chứ Nhà nước không làm thay việc “soi” từng dự án để thấy có dự án nào đó không hiệu quả mà kết luận DN không hiệu quả”, chuyên gia Nguyễn Thường Lạng góp ý.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhấn mạnh: Không thể có một doanh nghiệp mà trong đó chục loại tài sản với các chế độ quản lý, sử dụng khác nhau: Đất đai sử dụng như thế này, tài sản công sử dụng thế kia, nhà đất thì sử dụng thế này. “Như thế doanh nghiệp không thể hoạt động đầu tư hiệu quả”, ông Cung nói.
Chuyên gia này cho rằng, khi thiết kế sửa đổi quy định, phải rõ trách nhiệm, quyền lợi, quyền lực liên quan đến quản trị của doanh nghiệp.
“Việc đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cũng phải thực hiện theo nguyên tắc thị trường, đánh giá dựa trên giá trị gia tăng của vốn đầu tư và cổ tức, lợi nhuận được chia hằng năm. Đó mới là cách đánh giá hiệu quả đầu tư vốn của Nhà nước với vai trò là một cổ đông lớn của doanh nghiệp”, chuyên gia Nguyễn Đình Cung góp ý.
Các chuyên gia nhấn mạnh yêu cầu Luật cần phải làm rõ vai trò của các cơ quan đại diện chủ sở hữu. Bởi sau khi đầu tư, các cơ quan đại diện chủ sở hữu là chủ sở hữu phần vốn góp, cổ phần tại doanh nghiệp và có quyền, nghĩa vụ tương tự các nhà đầu tư, các cổ đông của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các cơ quan này không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Mọi hoạt động của doanh nghiệp do ban điều hành thực hiện, tách chức năng quản lý của chủ sở hữu Nhà nước đồng thời cần cụ thể hóa về trách nhiệm giải trình của người đứng đầu; áp dụng quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế.
Nhật Quang – Fili